Thursday, March 15, 2012

TRAI ĐƯỜNG – ĐẠO THIỆN PHÒNG . #2



Author: RongChoi.

 ...   Có ngày không phải phiên cúng của ban nên tôi có thể lang thang kiếm một góc nào đó ngồi chằm nón và nghe các chị đồng nhi ban khác đọc kinh, lúc đó cảm giác như tôi đang dựa vô cái gốc cây có treo chùm chuông gió vậy, hứng trọn vẹn những giọt kinh trong trẻo rơi vào tai mình, tôi tưởng tượng thêm chắc trên cây đó có mấy con chim nữa bởi tôi có nghe tiếng líu ríu tuôn theo cùng với những giọt kinh kia.

Ngồi may những mũi kim đều đặn trên lá mật cật kết vào gọng nón mà tôi tưởng mình đang xâu những hạt trong veo kia, chừng 2 hạt kinh là có một cái gút chắc chắn bằng…tiếng nhịp thanh thao của cặp song lan, những chuỗi nam ai, nam xuân nhặt khoan làm xâu chuỗi âm thanh tưởng tượng của tôi thật lóng lánh một thinh sắc Đạo mầu. 

Vì ở Sở đồng nhi nên hàng ngày tôi đều thấy chưng hoa quả ở Hậu điện Báo Ân Từ, thỉnh thoảng có giúp mấy cô lặt những bông đã cúng rồi trải lên cái sàn đan bằng tre đem ra sân phơi làm trà. Tôi thích phụ vì nhờ đó tôi cũng có một trò vui là kết những cái hoa huệ vào sợi chỉ xếp thành một chuỗi dài đem treo ở đầu giường rất là thơm và cũng mau khô nữa, tôi sẽ đem chuỗi hoa huệ đặc biệt đó vào cho Dì Tư ở Lễ viện. Nơi đó có nhiều khách ghé thăm, họ đi rồi trở lại nhiều lần, tôi không biết có phải vì…ghiền món trà hoa huệ như tôi không.

Không phải tự nhiên tôi…mơ ngang hông vậy đâu, bởi tai tôi vừa hứng được câu “Ðem Chơn thần đến tận Ðài Huệ Hương. Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể” của bài kinh Đệ Lục Cửu, quả thật…thơm ngất ngây mùi Đạo, tôi lim dim lúc nào không hay cho tới khi tiếng mõ tụng kinh Di Lạc rơi liên tục trên đầu “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”, tôi mơ màng chưa tỉnh nên lơ mơ tưởng đám chim ăn trái gì nhả hạt trêu tôi.

Nếu có ai hỏi tôi…thích làm gì nhất trong sự nghiệp tu học Đạo, tôi sẽ không chần chừ nói ngay “làm đồng nhi”. Thiệt, không có làm chức gì mà…ngon lành bằng làm đồng nhi. Tuổi thơ tôi gắn bó với lời kinh tiếng kệ, tôi thấy chị em đồng nhi giống mấy con chim họa mi vậy, có thể ca hát giữa rừng cây bạt ngàn. Giữa Đền Thánh, giữa bao nhiêu người thành kính cúng Đức Chí Tôn, tất cả gần như lắng nghe đồng nhi ngân nga, ê a, mọi người hài lòng vì những điều bất di bất dịch trong tâm hồn. Làm đồng nhi có thể nhìn bao quát Nội điện nguy nga lộng lẫy và trang nghiêm trong giờ cúng từ vị trí trên lầu Hiệp Thiên Đài, được đi lên từng bậc bao lơn ở Cửu Trùng Đài để đọc kinh dẫn cửu, hôm nào có Đại tường là tiến thẳng vào Bát Quái Đài, được nhìn thật gần những nét Từ Bi của Thiên Nhãn để tối đó về ngủ mơ ước gặp được…cả đôi mắt của Trời.

Đi giáp vòng trên không vẫn chưa phải là cuối cùng cho bước chân của đồng nhi. Sau khi đọc kinh dẫn cửu, tất cả các chị em đồng nhi sẽ được đặt cách quỳ ở giữa Chánh Điện để tụng kinh Di lạc. Đặc cách vì nơi này là vị trí của các vị chức sắc chức việc, khi tôi lớn lên trở thành một tín hữu thì chỉ ngồi ở phía bên, còn ngày Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn thì tôi an tọa ở…cội bồ đề hay ngoài hành lang nghe đồng nhi đọc kinh lãnh lót giữa khuya, có lúc gà gật, tôi cứ ngỡ tiếng kinh đó từ…trời rơi xuống như mưa vậy, thấy mát dịu lòng mình như tuổi thơ tôi.

Mặt trời đã chếch bóng khỏi mái hiên mà tôi ngồi mơ màng nãy giờ, nắng liếm vào chân tôi nghe ấm nóng, duỗi thẳng chân cho đỡ mỏi rồi đứng dậy gom cái nón đang chằm dang dở đi về hướng Báo Ân Từ
 
Đền thờ Báo Ân Từ uy nghiêm tráng lệ, người thăm viếng tấp nập nhưng phía sau Lễ viện trầm lắng và giản dị vô cùng, tới cây chổi quét bàn, quét ván đều là vải vụn từ Sở may kết lại. Cây chổi quét lá ngoài sân là râu ria cành nhánh tre, hay chà chôm gom từ bụi cây dại, nhánh nào to thì ôm vào bếp làm củi. Dì Tư hay quét sân bằng chổi lá dừa, nó quét sạch lá nhưng cũng dễ bén lửa. Sáng nào cúng ở Đền Phật Mẫu xong, tôi xách nước tưới mấy bụi trang và lấy chổi quét lá nhãn rụng để gom đốt, không nhớ mùa hè đó tôi làm được bao lâu nhưng tôi đã...đốt hết mấy cây chổi rồi.

Trên bàn nước phía trước (không có ghế, mà hình như khách toàn leo lên ván ngồi khi được mời) tất nhiên có ly tách và bình trà đủ loại hương, hôm thì mùi bông vạn thọ phơi khô, hôm bông lài, bông sen...có khi là hoa hướng dương nữa nhưng tôi thích nhất là trà hoa huệ (mà nhiều người khác cũng nói vậy). Không biết trước đó thì ai nhặt mấy hoa đó từ bình bông cúng, ai cắt xắc rồi phơi, bây giờ thì còn làm trà như vậy không? (và ai làm? Hiển nhiên không phải tôi). Trà cúng ở Đền thờ toàn là mùi thanh nhẹ và cao quý, nhưng cúng xong là người ta thỉnh uống hết, Dì Tư ở đó bao lâu mà cũng không mấy khi uống thử.

Trở lại trà phơi khô từ bông, không biết có ngon không nhưng hễ ngày nào chú sáu ở bộ lễ qua thì chú nốc cạn bình còn kêu ít, nhìn chú như nhịn khát mấy hôm trước khi sang chơi. Nói là chơi vì mấy việc chú làm theo tôi toàn là những trò thú vị, chú chẻ dùm củi gộc, chú leo thang hái dừa khô... Hình như ở đó mấy Dì không ai biết ăn dừa tươi, chờ tới khi quày dừa khô queo thì hái xuống nấu chè cúng, tôi nghĩ mấy cây dừa ở đó tu một cái vèo là thành tiên vì nó cống hiến sạch sành sanh rồi.

Chị Hai Nhẫn mỗi khi đốt gáo dừa nấu cơm, chị gom tro dừa pha nước dành gội tóc (tôi nghĩ mớ râu bắp trên đầu của tôi mà cũng làm vậy, không chừng nó cũng bóng mượt như nhúng dầu dừa). Chị Hai không mấy khi thả tóc, chị búi rất gọn và chắc chắn mà không cần dùng cây xiên hay cái kẹp nào ghim cả. Trưa vắng chị cũng ngồi chằm nón, lúc đó tôi chưa biết làm nón, tôi ngồi không nên quơ cái nón quạt cho chị, chị nói cái nón chưa vuốt keo, tôi mà quạt một hồi là bung chỉ, rách lá hết, chị nghĩ chắc tôi thấy nóng bức nên lấy lược ra chảy cho rồi búi tóc tôi thành hai ...củ tỏi, ai nhìn cũng cười.

Có lần chú sáu vô chơi, chú cũng thấy và hỏi...tiểu đồng tu với sư phụ ở núi nào, có biết Ông Trời là ai không?  Không đợi trả lời, chú nói tiếp...ngộ ha, ông nội tui kêu Ông trời là ông trời, tui cũng kêu là ông trời, theo lẽ phải nói là Ông nội trời mới phải hoặc hơn nữa...Tôi ngồi nghe bỗng nhiên nhìn lên bức tranh thuỷ mặc ngã màu vẽ Đức Ông Phạm Hộ Pháp ngồi trên ghế đội nón lá nhìn hiền ơi là hiền. Sau này mỗi khi về Báo Ân Từ ghé thăm Lễ Viện, lần nào tôi cũng nhìn lên bậc cửa, bức tranh vẫn nguyên chỗ cũ, chú sáu vẫn thỉnh thoảng ghé vào thăm nhưng không còn leo dừa nữa, hình như cây dừa cũng thương chú mà lão theo nên không ra trái nữa.
 
Bây giờ trên bàn nước không biết còn dĩa bánh trái đào mà một thời làm tâm điểm mỗi khi tôi ra vô ngang qua, hồi đó tôi hay hỏi Dì Tư, bánh đó bằng nhựa hả Tư? Dì nói...bánh thiệt của Hội yến mấy năm trước đó, tôi hỏi...sao không ăn? giờ còn ăn được không? Tư nói…để cho đẹp, bây giờ ăn hết được rồi. Tôi nhìn nó vẫn còn giống trái đào lắm, vẫn chúm chím hồng, lúc đó tôi ngẫm nghĩ nó đúng là trái đào tiên nên trường thọ, giá mà tôi được ...cắn một miếng, có khi tôi sống tới mấy ngàn năm..

                                                            *Đọc phần một 

RongChoi.
 ____________________________________________________

1 comment:

  1. Mình rất thích tác giả này , giọng văn hiền hoà ...

    ReplyDelete