Friday, June 25, 2021

Đôi điều về viện dưỡng lão

Trần Lý Lê



Viện dưỡng lão, tức nursing home là chữ mà nhiều người cao niên không muốn nghe. Người già, phần lớn sợ hãi trước cảnh sống buồn bã, cô đơn giữa những người xa lạ. Người chưa già lắm thì băn khoăn, lo lắng khi tìm hiểu về viện dưỡng lão, chuẩn bị cho thân nhân và cả cho mình mai này.

Ðại dịch Covid 19 gây chấn động thế giới và cư dân sống trong viện dưỡng lão là những người nhiễm bệnh và tử vong ở mức cao nhất. Tình trạng ấy đã “đánh thức” các nhà cầm quyền mọi nơi. Họ bắt đầu chú ý hơn đến viện dưỡng lão. Tại Hoa Kỳ, cư dân sống trong viện dưỡng lão được ưu tiên chủng ngừa Covid-19 vì họ dễ nhiễm bệnh hơn, lại sống chung với nhiều người khác. Số lượng người sống trong các viện dưỡng lão tử vong vì dịch ở mức độ cao đã khơi dậy sự bất bình của người dân Hoa Kỳ. Họ đòi chính quyền thay đổi chính sách kiểm soát, theo dõi hoạt động của viện dưỡng lão để trợ giúp người già đắc lực hơn, không để họ chết như đã xảy ra.

Tại Hoa Kỳ, số người già thọ 85 tuổi trở lên mỗi ngày một đông, họ sống lâu hơn mức liệu định của xã hội nên chính quyền chưa có các chính sách rõ ràng hầu giải quyết các vấn đề về y tế, xã hội liên quan đến tuổi già. Do người già sức lực kém, cần được chăm sóc cẩn thận về sức khỏe cũng như được trợ giúp trong các nhu cầu cá nhân. Có cụ cần được uống thuốc men hằng ngày vì không còn minh mẫn để tự lo. Có cụ mất cả khả năng tự tắm rửa, thay quần áo. Rất ít những cư dân luống tuổi được gia đình chăm sóc đầy đủ. Số còn lại trông nhờ vào các dịch vụ công cộng và tùy địa phương họ sinh sống.

Hiện nay, viện dưỡng lão – nursing home hoặc skilled nursing home – thường bao gồm cả dịch vụ y tế, cung cấp các bữa ăn và đôi chỗ còn có dịch vụ giải trí để ngày tháng bớt nhàm chán. Ngoài ra, còn có các trung tâm phục hồi, rehabilitation, dành cho các cụ luống tuổi hồi phục sức khỏe sau cơn bạo bệnh, khi rời bệnh viện trở về nhà (chưa đến mức chăm sóc tại viện dưỡng lão). Các trung tâm chăm sóc ấy còn có cả nơi dành riêng cho những người đã bị lẫn (dementia); tạm hiểu là đủ mọi loại và mức độ chăm sóc từ trợ giúp, phục hồi đến trông nom toàn phần. Cách “phân chia” dịch vụ thành nhiều phần như thế trở thành một kiểu làm ăn buôn bán, càng nhiều dịch vụ, phí tổn càng cao.

Nhìn lại lịch sử, mãi đến đầu thế kỷ XX, nhà dưỡng lão hay “old age home” mới ra đời tại Hoa Kỳ. Nhà dưỡng lão thủa ấy thường do các tổ chức tôn giáo hoặc các nhóm đồng chủng/hội ái hữu như Evangelicals, Jewish people, Germans… thành lập và lo chăm sóc cho những người “cùng hội cùng thuyền” như: Boston’s Home for Aged Woman, Indigent Widows’ and Single Women’s Society in Philadelphia và các trung tâm chăm sóc người già khác.

Các nhà dưỡng lão này thường nhỏ, chỉ có khoảng 30-50 giường; với một lệ phí khiêm nhường, cư dân có chỗ ăn ở và họ tự dọn dẹp chỗ ngủ, tự lo ăn uống mà không cần người giúp đỡ. Vào thời khủng hoảng kinh tế, thập niên 30 của thế kỷ trước, xã hội cần nhiều nhà dưỡng lão hơn nữa vì số cung thấp hơn mức cầu rất xa.

Các nhà lập pháp thủa ấy cho rằng, ngân sách chăm sóc người già sẽ ít tốn kém hơn nhà tế bần. Từ đó, đạo luật An Sinh Xã Hội, the Social Security Act, ra đời năm 1935, bao gồm cả chương trình Trợ Giúp Người Già, the Old Age Assistance (OAA) program, tài trợ cả người nghèo không nơi nương tựa. Ðược biết, chương trình OAA không trợ cấp cho các trại tế bần nên những người này chuyển sang các nhà dưỡng lão của tư nhân. Vì có tiền trợ cấp từ chính phủ, các công ty đứng ra thành lập “trung tâm dưỡng lão”, quy mô hơn, rộng lớn hơn để kinh doanh. Từ đó, chính quyền tham dự vào việc điều hành viện dưỡng lão (chi tiền nên có quyền) của các công ty/tổ chức tư nhân cho đến nay.

Một thập niên sau, năm 1946, Quốc hội ban hành Hill-Burton Act, cho phép nhà dưỡng lão được thành lập/xây cất chung với bệnh viện và cho phép chính phủ kiểm soát các hoạt động này. Viện dưỡng lão trở thành nơi cung cấp các dịch vụ y tế, mức độ thấp hơn bệnh viện, tạm hiểu là viện dưỡng lão chuyển từ hệ thống an sinh (welfare) sang hệ thống y tế (healthcare) và có các tiêu chuẩn hoạt động riêng.

Theo bà Gillick, trong thập niên 50, Hoa Kỳ xem hệ thống y tế công cộng như bệnh viện và viện dưỡng lão nằm sát bên bệnh viện cũng là một loại bệnh viện, dù không có mặt bác sĩ thường xuyên. Từ đó, các viện dưỡng lão được xây dựng rất nhiều, dẫn đến một số chịu nhiều tai tiếng và bị đóng cửa vì kém tiêu chuẩn y tế và an toàn. Năm 1965, tu chính Medicare & Medicaid được thêm vào đạo luật Social Security Act thì việc thành lập và điều hành viện dưỡng lão trở thành một ngành kinh doanh, làm ăn như mọi ngành khác.

Ðến giữa thập niên 70, số viện dưỡng lão gia tăng 140% và mức buôn bán gia tăng 2000%. Số lượng gia tăng nhưng phẩm chất của viện dưỡng lão lại sút giảm. Ðến nỗi các trung tâm này bị gọi là “nơi dừng chân & chết” hay “park and die facilities”. Thượng Nghị sĩ/Dân biểu David Pryor đã gọi viện dưỡng lão là nơi nằm giữa xã hội và nghĩa địa, “halfway houses between society and the cemetery.” Từ thời điểm này, chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục kiểm soát để duy trì các tiêu chuẩn y tế áp dụng tại viện dưỡng lão.

Người nghèo khó, không có nguồn lợi tức nào khác, cư trú tại những viện dưỡng lão được tài trợ bởi Medicaid. Ở đó, mỗi phòng thường có 3 – 4 giường và những chiếc tủ đứng có khóa cho mỗi người nên phòng ốc thường chật chội. Tại những viện dưỡng lão dành cho người khá giả, thân nhân thường phàn nàn về phẩm chất dịch vụ mà họ phải trả tiền. Và khi bất bình, khách hàng thường tìm kiếm những nơi trú ngụ vừa ý hơn, tương xứng với món tiền phải trả. Nhu cầu này dẫn đến sự xuất hiện của các trung tâm cung cấp dịch vụ trợ giúp người già, assisted living, vào thập niên 80; mức độ trợ giúp tùy thuộc vào sự cần thiết của người sống trong viện dưỡng lão, tựa như nhà trọ và không mấy liên quan đến “y tế” như viện dưỡng lão.

Nói chung, mùi tiền bạc thu hút người đến làm ăn qua việc cung cấp dịch vụ “trợ giúp người già”. Kỹ nghệ này cũng nhanh chóng phát triển, đến nỗi nhiều tài phiệt bỏ cuộc vì mức lời lãi không như họ mong muốn: Xây cất một tòa nhà thì dễ dàng nhưng chăm sóc người cư trú trong các tòa nhà ấy là việc khó khăn. Cách chủ nhà làm ăn buôn bán ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của người cư trú, nhất là những người đau yếu, sức khỏe mòn mỏi, không còn minh mẫn để tự chăm sóc. Kỹ nghệ này chú trọng sức khỏe thể xác, theo tiêu chuẩn tối thiểu của chính phủ như bữa ăn, vệ sinh thân thể. Tuy vậy, cũng có nhà dưỡng lão chú trọng đến tâm thần của người cư trú ngoài sức khỏe thể xác, nhưng số lượng còn rất ít. Ðiều đáng chú ý, là để đạt tiêu chuẩn chăm sóc người già, cần nhiều yếu tố nhất là sự hiểu biết về y tế của chủ nhà và nhân viên.

Dù mức tử vong tại viện dưỡng lão do đại dịch Vũ Hán là một con số kinh hoàng, 170,000+ người trên toàn quốc nhưng viện dưỡng lão vẫn là nơi cư trú thiết yếu cho người già nghèo khó vì các trung tâm trợ giúp, assisted living facilities, không nhận chăm sóc người nghèo trong khi viện dưỡng lão, nursing home, được tài trợ bởi chính phủ Hoa Kỳ qua chương trình Medicaid.

Tính đến hôm nay, chăm sóc người già là một ngành kỹ nghệ lớn trị giá khoảng 100 tỷ Mỹ kim hàng năm, tài trợ bởi Medicaid và nguồn tài lực tư nhân. Câu hỏi khiến các nhà xã hội băn khoăn là làm thế nào để kiểm soát, theo dõi hoạt động của các trung tâm chăm sóc người già này hiệu quả hơn, tránh được các vấn nạn xảy ra trong thời đại dịch.

TLL

_______________________________

1 comment:

  1. câu hỏi giữa vợ chồng chúng tôi là khi nào thì sẽ gởi một người kia vào nursing home , câu trả lời khi nào sự chăm sóc là một gánh nặng nề quá,(dù là phải mướn một người giúp).Chuẩn bị tinh thần từ bây giờ sẽ không là một sốc nặng!Không thể bắt phải hy sinh thêm một người nữa!Yêu nhau phải hy sinh cho.
    nhau.
    Phải chi tác giả viết thêm về sự tốn kém phải chi ra cho các gia đình trung lưu thì độc giả sẽ cám ơn thêm (Medicare có công thức để tính tiền chi phí)

    ReplyDelete