Wednesday, December 10, 2025

Mùa Giáng Sinh Cuối Cùng

 
*Hình minh họa, lấy từ internet.

Tối qua, lang thang trên trang “Đà Nẵng – Xứ Quảng xưa”, trong một bài viết về ẩm thực ngày Tết, tôi đọc được một comment nhắc đến món bánh tráng đập dập cuốn thịt heo ba chỉ chấm mắm nêm kiểu Quảng Nam. Món ăn ấy bỗng gợi nhớ đến kỷ niệm với cậu tôi cách đây 45 năm, người đã dẫn tôi đi ăn bữa giã từ trước khi rời quê nhà. Câu chuyện tôi có ghi lại trong một bài viết về Giáng sinh cách đây khá lâu. Thật lạ, đôi khi chỉ một món ăn giản dị, một món ăn mang tính địa phương, có chút “dung dị quê mùa” lại khiến cả “một trời quê hương” ùa về trong tâm trí.
.............
Mùa Giáng Sinh Cuối Cùng
Khi tôi đang viết những dòng chữ này thì Giáng sinh đã cận kề. Cây thông trước tòa nhà thị chính như mọi năm đã được trang hoàng rực rỡ. Trên con đường Main dẫn vào trung tâm thành phố, những trụ đèn gắn giả bóng nến đã bắt đầu thắp sáng lung linh khi hoàng hôn vừa tắt. Từ ngôi giáo đường Sacred Heart vọng lại những hồi chuông báo lễ chiều, chúng ngân vang giữa bầu trời đông, len qua những tán cây trụi lá. Chuỗi âm thanh ấy nhỏ dần, nhỏ dần, như vọng lại từ một nơi chốn tưởng chừng đã nhạt nhòa trong ký ức mình.
Một ngày trước Giáng sinh như hôm nay, những hồi chuông báo lễ cũng vang lên từ thánh đường Vườn Xoài trên đường Trương Minh Giảng. Sáng sớm tôi từ giã Sài Gòn, vai mang ba lô nhờ người bạn chở ra ga xe lửa Bình Triệu. Chẳng có con đường nào khác. Cuối cùng rồi tôi cũng phải quay về Đà Nẵng. Tôi bây giờ thuộc thành phần vô gia cư thứ thiệt, giấy tờ tùy thân không có, sổ hộ khẩu đút túi vì chẳng biết nơi đâu đặt xuống để mà “đăng ký” trú ngụ. Cả hai năm trời loay hoay đi hết chỗ này đến chỗ kia kiếm đường vượt biên, vắng mặt lâu nên trường lên danh sách cho nghỉ luôn. Vậy cũng tiện để mình dứt khoát hơn. Cầm tờ giấy hộ khẩu nhà trường trao lại, tôi chẳng biết tính sao. Ở lại thì không được vì mình thuộc diện sinh viên tạm trú thành phố, về Đà Nẵng thì công truờng lao động hoặc “nghĩa vụ quân sự” đang chờ đón. Tôi nán lại Sài gòn để đợi những chuyến đi khác, nhưng rồi cũng chẳng tới đâu. Gia đình dì tôi lo lắng vì tự dưng trở thành nơi chứa chấp một người sống bất hợp pháp. Dì và mấy anh chị tuy không nói ra nhưng có vẻ e ngại. Rồi một ngày tôi nhận được tờ điện tín của ba tôi, nội dung chỉ là thăm hỏi nhưng hiểu ngầm là về gấp để tính chuyện đi xa.

Không mua được vé chính thức vì đâu có giấy phép đi lại, mà vé chợ đen thì giá trên trời. Nghe lời mấy người bán hàng rong, tôi quyết định chui qua hàng rào vào ga, tính nhảy lậu tàu. Nếu chẳng may bị bắt thì cũng chỉ phải đóng tiền gấp đôi theo quy định, chứ họ đâu thể đuổi mình xuống giữa đường. Dĩ nhiên, với hạng “vé cá kèo” như vậy, tôi chỉ có thể tìm một góc nào đó ngồi tạm, làm gì dám mong có chỗ tử tế.
Vài ngày liền tôi lăn lóc trên sàn tàu nhơ nhớp; mỗi lần thấp thoáng thấy bóng nhân viên soát vé lại phải trèo ra ngoài, đu người lơ lửng để trốn. Cuối cùng, tôi cũng thoát và về được đến quê nhà. Nhưng lúc này tôi phải tính toán để đối phó với một vấn đề nan giải khác, chuyện ăn đâu, ở đâu? Trở về thẳng nhà mình trên đường Ông Ích Khiêm thì quá nguy hiểm; hàng xóm chung quanh sẽ đặt câu hỏi về tình trạng cư trú của tôi. Thêm vào đó, nhà tôi lại đối diện đồn công an phường Hải Châu 2. Hằng ngày nhìn thấy mấy ánh mắt cú vọ soi mói từ bên kia đường sang thì thật sự khiến tôi khiếp sợ. Vì thế, tôi quyết định gọi xe thồ chở thẳng về nhà ngoại trong một con hẻm sâu trên đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), xem như lâu ngày trở về thăm gia đình ngoại.

Lần trở lại Đà Nẵng này, tôi thấy thành phố thay đổi quá nhiều. Cảnh quan im lìm, như một thành phố chết. Hoạt động buôn bán dường như dừng hẳn, đường phố thưa thớt người qua lại. Việc đi lại chủ yếu bằng xe đạp; hiếm thấy những chiếc xe máy hay xe hơi như trước. Những người chạy xe thồ giờ cũng chỉ còn dùng xe đạp, lom khom trên những con đường gập ghềnh, trông thật tội nghiệp. Không khí yên ắng, tĩnh lặng, khiến nơi này vừa quen vừa lạ, mang một nỗi buồn trầm mặc khó tả.
Thay đổi ở Sài Gòn, dù cũng chịu ảnh hưởng của hai đợt đánh tư sản rồi đổi tiền, nhưng vẫn còn giữ được chút dáng dấp của một nơi văn minh: phương tiện đi lại còn có xe máy, vài chiếc xe hơi; con người ăn mặc vẫn tươm tất hơn. Còn Đà Nẵng ngày tôi trở lại thì buồn thiu, tả tơi.
Xóm nhà ngoại vốn là nơi quá đỗi quen thuộc với chị em tôi. Từ nhỏ đến lớn, hễ có dịp là tôi chạy ra đây ngay, phần vì nhớ mấy cậu, phần vì thích gặp đám bạn hàng xóm. Ở nhà ngoại, tôi thường được cậu dì cưng chiều vì mình thuộc vai cháu, dù hai cậu út còn nhỏ tuổi hơn cả tôi. Chơi trò gì với mấy cậu, tôi cũng được nhường, bởi vậy mà tôi mê nơi này lắm.
Nhưng lần này về ở nhà ngoại, tâm trạng tôi hoàn toàn khác. Tôi luôn dè chừng, e ngại trước mọi cuộc gặp gỡ chung quanh. Xóm ngoại lúc ấy lại có một tên công an khu vực nổi tiếng hắc ám, hình như tên là Lê Lụa, ai cũng xem như hung thần. Hắn thường bất ngờ ghé kiểm tra sổ hộ khẩu, bắt bớ những người bị nghi cư trú lậu.
Suốt mấy tháng trời, ban ngày tôi lang thang khắp nơi trong thành phố, tối về tìm chút gì ăn rồi chui lên gác ngủ. Cuộc sống bế tắc, chỉ còn chút niềm vui le lói mỗi khi tôi tưởng tượng về một chân trời mới đang đợi mình ở phía trước.
Biết tình trạng của tôi nên mấy cậu dì thuơng, không những che giấu mà thỉnh thoảng còn dẫn đi ăn sáng trước khi tôi ra khỏi nhà trong ngày. Nghĩ lại thương hai bà ngoại, mấy cậu dì hy sinh bao bọc đứa cháu trong lúc nguy khốn.

Gần năm tháng trời trốn ở nhà ngoại, ngày đi chạng vạng tối về đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Năm đó tôi đón Giáng sinh ở nhà ngoại. Những ngày gần lễ tôi nằm trên gác nghe văng vẳng tiếng chuông nhà thờ đổ, nghe râm ran tiếng đọc kinh của nhà sát bên. Buồn thảm. Đêm Chúa ra đời, tôi rít hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Nhớ những Giáng sinh bao năm truớc, nhớ cây Noel rực sáng nhà mình, nhớ hội hè truờng lớp, nhớ không khí vui nhộn Đà Nẵng một thời nay xa vợi.
Lúc ấy, trong nhà ngoại thường chỉ có cậu cả và cậu út ở nhà. Cậu Nhân, người lớn nhất đã có vợ con; cậu út Giáo thì còn đang đi học. Cậu Long dạy học xa thành phố, còn cậu áp út, cậu Hồ, thì đang đi bộ đội. Hai cậu ở giữa thỉnh thoảng mới ghé về. Mỗi lần đông đủ các cậu, nhà lại rộn ràng hẳn lên. Nhớ nhất những buổi tối kiếm được chút đường, chút nếp để nấu một nồi chè nhỏ. Mấy cậu cháu quây quần trên gác, vừa xì xụp ăn chè vừa thay phiên nhau “chiếu phim” kiếm hiệp bằng miệng. Mấy cậu tôi mê truyện chưởng lắm. Và thế là những đường kiếm hư chiêu, những ngọn chưởng gió lồng lộng trong Lộc Đỉnh Ký, Cô Gái Đồ Long, Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp… bỗng như ào ào tuôn ra từ căn gác nhỏ của nhà ngoại.
Trước năm 75, tôi không mấy thích đọc kiếm hiệp. Vậy mà sau cái ngày gọi là “giải phóng”, tôi lại tìm đến chúng. Có lẽ những biến động ngoài xã hội khiến mình không thấy nổi lối đi hay đường thoát, nên đắm chìm trong thế giới hư ảo của Kim Dung cũng giúp vơi bớt nỗi khổ tâm và sự tuyệt vọng.

Cậu út Giáo
Tôi luôn nhớ ông cậu út của mình. Trong bốn người cậu, cậu Giáo là người ngang tàng nhất: ít nói, lì lợm, thấy chuyện bất bình ngoài đường là lao vào bênh vực kẻ yếu ngay. Anh em, cháu chắt mà đi đâu về méc bị ai ăn hiếp là cậu lập tức đi tìm kẻ gây chuyện để “xử”. Lúc đó, cậu út hầu như chẳng tha thiết gì với chuyện học hành. Dưới mái trường Xã hội Chủ nghĩa, điểm hạnh kiểm của cậu thuộc loại đội sổ.
Có một lần đi học về, cậu kéo tôi lại nói nhỏ. Hóa ra cậu và mấy người bạn “ngang trời” của mình gây gổ với đám cán bộ đoàn trong lớp. Thầy chủ nhiệm liền gửi giấy mời phụ huynh lên làm việc. Ông ngoại mất sớm khi cậu còn bé, hai bà ngoại thì quá già; phụ huynh của cậu út là các cậu lớn hơn. Nhưng cậu nào dám thưa chuyện? Thế là cậu nảy ra sáng kiến: nhờ tôi đóng vai phụ huynh đi dự buổi họp “đấu tố”. Cậu út nhỏ hơn tôi đến năm tuổi nên thầy tin ngay, đâu ngờ “phụ huynh” lại chính là cháu ruột của cậu học trò ngỗ nghịch.
Trong buổi họp, tôi cũng đứng lên xin lỗi thầy chủ nhiệm và hứa sẽ về khuyên nhủ, dạy dỗ “em mình”. Hôm sau, cậu dẫn tôi đi ăn nhậu no nê để cảm ơn. Tiếng đồn tôi đóng vai phụ huynh quá đạt, thế là vài ông bạn cùng hoàn cảnh với cậu cũng nhờ tôi làm “anh” họ mỗi khi bị mời họp kiểm điểm. Nhờ vậy mà tôi có thêm mấy chầu bún bò với cà phê sáng.
Mỗi lần nhớ lại chuyện giả làm phụ huynh ấy, tôi lại bật cười. Đó vốn là bí mật tôi hứa với cậu phải giữ kín. Vậy mà hôm nay tôi thất hứa kể ra đây. Giờ cậu cũng đã không còn trên dương gian nữa. Chắc ở đâu đó, cậu cũng chẳng nỡ trách đứa cháu không giữ lời này.

Chuyện với cô bé Hà
Lúc đó kế bên nhà ngoại có cô bé tên Hà. Rảnh rỗi ngồi trên gác nhìn sang, tôi hay thả thính ghẹo mấy câu cho vui. Cô ấy hiền, hay cười ít nói. Vậy là trong mấy tháng trời trốn chui trốn nhủi tôi vẫn còn có niềm vui nho nhỏ là thỉnh thoảng đuợc nói chuyện với cô bé hàng xóm nhà ngoại. Cũng có chút quyến luyến. Hôm chuẩn bị rời nhà ngoại sang bãi Mỹ Khê ra khơi tôi có nói lời từ giã cô ấy. Hà buồn. Buổi chiều cô bé chuyển sang cho tôi tờ giấy nhỏ viết mấy chữ, Hà nói sẽ cầu nguyện với Chúa cho tôi đuợc ra đi thành công, đến nơi bình yên, và nhớ là đừng quên Hà. Cô bé làm tôi cảm động cho tới bây giờ. Nghe đâu, Hà bây giờ cũng đã sang Mỹ định cư.

Cậu Nhân tôi
Trong số các cậu, có lẽ mẹ tôi quý cậu cả nhất. Chắc là mẹ vẫn theo nếp gia đình, luôn trọng con trai lớn. Mẹ biết ông ngoại quý cậu, nên sau này ngoại mất, mẹ cũng dành nhiều tình thương cho cậu. Cậu Nhân cao to, đẹp trai, tính hiền lành. Cậu lấy vợ sớm; khi tôi về trốn ở nhà ngoại, vợ chồng cậu đã có hai con.
Thời gian tôi lẩn trốn trên gác nhà ngoại, cậu thường mua cho tôi những món nhỏ: có lúc bao thuốc lá, có lúc ổ bánh mì. Cách vài hôm, khi tổ chức vượt biển kêu đi, cậu chở tôi đến một quán ăn khá xa. Quán chuyên bán món bánh tráng đập dập cuốn thịt heo ba chỉ, món đặc biệt nổi tiếng vùng Quảng Nam - Đà Nẵng quê tôi. Bánh tráng nướng giòn, phủ thêm lớp bánh tráng ướt mềm, cuộn bên trong là thịt heo ba chỉ và vài loại rau dân dã. Cuộn bánh chấm vào chén mắm nêm, đưa vào miệng thơm phức, ngon đến mức đến bây giờ nhắc lại tôi vẫn thèm. Lúc đó, thiếu thốn mà được ăn như vậy, hai cậu cháu xem như có một bữa giã biệt no nê.
Trong bữa ăn, cậu cháu nhắc lại những kỷ niệm xưa. Khi còn độc thân, cậu hay ra nhà chở mấy cháu đi chơi. Cậu buồn khi biết tôi sắp ra đi, chưa biết bao giờ sẽ gặp lại, và những hiểm nguy đang chờ đón. “Một lần đi là một lần vĩnh biệt” mà, biết đâu được tương lai - định mệnh? Cậu khuyên tôi nếu sang được nước ngoài thì cố gắng học hành trở lại. Cậu nói vẫn luôn hy vọng vào tương lai của đứa cháu mà cậu đã gắn bó, thương yêu. Giọng cậu buồn rười rượi. Nay thì cậu Nhân tôi cũng chẳng còn. Tôi nhớ cậu lắm. Chắc cậu ở một nơi nào đó cũng không nỡ trách đứa cháu mà cậu luôn đặt kỳ vọng về chuyện học hành. Cho đến bây giờ cháu vẫn chưa làm được điều như cậu mong muốn.
Mấy hôm sau, tôi mang theo túi xách đựng bộ quần áo “xơ cua” xuống bến phà Bạch Đằng. Con phà nổ máy xình xịch đưa tôi qua bờ bên kia sông Hàn. Trong tôi lúc ấy là cả một trạng thái phức tạp, trộn lẫn nôn nao, lo lắng và buồn bã. Biết bao giờ mình mới trở lại!

Hôm nay, giữa chốn quê nguời thêm một mùa Giáng sinh nữa lại về. Trời lạnh hẳn, tuyết đầu mùa đã rơi nhẹ hôm qua. Tôi ít ra khỏi nhà hơn trừ lúc đi làm. Cuối tuần, pha một ly cà phê, mở vài bản nhạc Giáng sinh, ngồi nghe và suy nghĩ mông lung. Nhớ quê nhà, nhớ Đà Nẵng. Chợt nghĩ đến câu “Quê hương là chùm khế ngọt” thời thượng mà báo chí và người bên nhà hay dùng. Chùm khế có còn ngọt thật sự hay không? Xa quê nhà hơn 40 năm, những rào cản chính trị vẫn còn đó, những khác biệt trong quan hệ xã hội, trong điều kiện sống ngày một lớn thêm. “Chùm khế ngọt” bây giờ khó còn tồn tại trong thực tế. Thế thì tôi còn có quê hương hay không? Hay chỉ có một quê hương khác nơi này? Nếu quê hương theo nghĩa thông thường là nơi ta sinh ra, lớn lên và có ở nơi đó quá nhiều kỷ niệm. Một thứ quê hương theo nghĩa đen vật lý, những con đường, hàng cây, góc phố. Thì rõ ràng tôi đã đánh mất nó. Tôi biết chắc rằng mình chẳng có lối nào quay về mà nó còn nguyên vẹn tất cả.
Nhưng nếu quê hương là một nơi để mình thương để mình nhớ, thì chắc chắn vẫn còn hiện hữu trong tôi. Có lẽ nó càng đẹp đẽ hơn vì không bao giờ thay đổi theo thời gian. Vậy sao không để nó nằm yên nguyên vẹn trong ký ức, trong mường tượng có khi lại hóa hay.
Mùa Giáng sinh năm 1979 vẫn còn nằm đâu đó trong trí nhớ tôi. Ngôi nhà ngoại đường Thống Nhất có mấy cậu dì. Lần lén lút giã từ Đà Nẵng. Ánh mắt khắc khoải buồn của ba mẹ. Lời nhắn nhủ cho đứa cháu của cậu Nhân. Lá thư tay chúc bình an của cô bé tên Hà. Mấy muơi năm mà mớ ký ức ấy vẫn có lúc nằm xuôi, có lúc chạy nguợc, vẫn bám víu mãi lấy cuộc đời mình. Làm sao quên!
Tiếng chuông nhà thờ Sacred Heart gióng lên từ xa báo hiệu giờ lễ chiều. Sacred Heart là Thánh Tâm, tên một dòng nữ tu quen thuộc, và tên một ngôi trường Công giáo mà mấy chị em gái của tôi hằng ngày đi-về những năm ấy.

Một ngày trước Giáng sinh

_________________________________________

No comments:

Post a Comment