Sunday, December 18, 2011

ÔNG GIÀ NOEL LÀ AI ?



Add caption

Thành Patara thơ mộng, một thành phố cổ thuộc miền Tiểu Á, ngày nay nằm ở vùng nam duyên hải Thổ Nhĩ Kỳ.  Trên ngọn đồi, Nicholas ngồi bên tảng đá, chàng hết ngắm nhìn biển xanh rồi lại quay nh́ìn ngôi nhà xinh xắn của chàng.  

Rất nhiều lần chàng đă ngắm nhhìn như thế, nhưng hôm nay chàng mới để ý nhà chàng đẹp và sang trọng nhất thành.  Chàng liên tưởng tới song thân đạo hạnh mới lần lượt vĩnh biệt chàng đi vào thế giới vô h́nh, để lại cho chàng một gia tài kích xù.  Chàng nhớ đến những chiếc rương nặng, đầy vàng bạc và châu báu đang khóa kỹ tại kho tàng nhà chàng…..
Nicholas chậm răi hướng cặp mắt lên bầu trời muôn mầu sắc lúc hoàng hôn, chàng thầm thì cầu nguyện:
Lạy Chúa, Ngài biết rằng con không cần đến mọi của cải đó.  Con ước ao phụng sự Ngài.  Xin Ngài dậy con phải làm gì ?
Nicholas hiểu rằng Chúa sẽ không trực tiếp trả lời chàng, nhưng chàng tin rằng Ngài sẽ đáp lại lời nguyện cầu của chàng bằng cách này hay cách khác.  V́ thế, chàng chờ đợi.
Một hôm, Nicholas cỡi ngựa qua một xóm nghèo.  Bọn trẻ quần áo xác xơ, cả  ngừng chơi nhhìn chằm chặp vào chàng thanh niên đẹp trai cỡi trên lưng con ngựa quí.  Lập tức, Nicholas đọc được trong những đôi mắt và trên thân hình gầy g̣ò của chúng sự nghèo túng, đói khát và đáng thương.  Đột nhiên chàng nhớ lại lời Chúa Kitô: “Các con làm điều gì cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em Ta đây, chính là các con làm cho Ta”.  “Những kẻ bé Mọn! Các trẻ nhỏ!”  Nicholas tự nghĩ, Chúa muốn tôi giúp đỡ các trẻ nhỏ”.  Lập tức chàng quay ngựa đi thẳng đến phố chợ.  Tại đây, chàng mua sắm những quần áo sặc sỡ, những đôi giầy đủ mầu đủ cỡ, rồi chàng xin những người bán hàng chất các rổ, các thúng với mọi thứ thịt thà, bánh kẹo, hạt giẻ và trái cây.  Đồng thời chàng nhờ họ giữ thứ đó cho tới khi chàng trở lại.
Đêm ấy, khi thành phố đă yên giấc, bọn trẻ đă ngủ say, Nicholas bí mật đi từ nhà này sang nhà khác, qua những cửa sổ mở trống, chàng đặt trên sàn nhà từng chiếc rổ, chiếc thúng đầy ắp những bánh quà, thịt thà và quần áo.  Chàng không quên bốc những nắm kẹo và hạt giẻ bỏ vào những đôi giầy mới để gây ngạc nhiên cho bọn trẻ.
Cứ thế, từ hôm này qua hôm khác, ban ngày Nicholas đi tìm kiếm kẻ nghèo đói, đêm đến chàng rảo qua các nhà, bí mật bỏ lại những món quà ...
Chẳng mấy chốc, người trong thành đã xôn xao bàn tán, họ hỏi nhau:
-          Ai là người đă bí mật trao tặng chúng ta những món đồ cần thiết, mà chúng ta không hay biết?
Khi nghe được những lời bàn tán của dân chúng, Nicholas tạm ẩn mặt một thời gian.  Chàng chỉ muốn một mình Chúa biết việc chàng làm.  Chàng tự nghĩ : “Nếu mình nhận lời cám ơn về việc mình làm, th́ì ra như đă nhận công thưởng đời này rồi!”
Ngày kia, Nicholas nghe kể về một người bạn của cha chàng, ông ta cũng là người thành Patara, nhưng làm ăn suy xụp.  Do sự suy xụp này ông ta không đủ tiền để sắm sửa cho ba cô con gái đă đến tuổi thành hôn.  Ông ta dự tính sẽ gửi cả ba đứa con vào làm cho một tửu quán gần nhà, để chúng có thể kiếm tiền lập gia đình.  Khi nghe câu truyện, Nicholas tỏ ra rất bực tức, vì cũng như mọi người trong thành, chàng biết rằng người chủ quán là một kẻ tội lỗi. Những nàng con gái làm trong tửu quán đó không khỏi đi theo đàng tội.

Ngay đêm đó, Nicholas bỏ đầy một túi nhỏ những đồng tiền vàng, đi thẳng tới nhà người bạn của cha chàng. Qua cánh cửa sổ đang mở, chàng thẩy túi vàng trên bàn, nơi người con gái lớn đang ngồi.  Khi nghe tiếng la sửng sốt của cô con gái vì túi vàng bỗng dưng từ đâu bay tới, Nicholas lanh lẹ trốn mất!  Không lâu sau đó, chàng nghe kể cô ta đă lập gia đình trong hạnh phúc.  Nhưng hai cô em còn ở lại nhà vì chưa có tiền!
Rồi chẳng bao lâu, Nicholas lại lần ṃò đến, chàng thẩy một túi vàng khác vào chỗ cô gái kế, và cũng nhờ túi vàng này, người con gái lập được tổ ấm hạnh phúc.
Thời gian kén rể cho cô con gái út đă đến, đêm nào cũng thế, người cha cẩn thận rình mò gần cửa sổ.  Ông nói với cô con gái cưng:
-          Ba cần phải biết ai đă giúp đỡ chúng ta, để chúng ta  nói với người một lời cám ơn.
Đêm đó, Nicholas lại bí mật ném túi vàng thứ ba qua cửa sổ.  Nhưng bỗng nhiên tay chàng bị nắm lại.  Chàng bị bắt quả tang!
 À th́ ra anh Nicholas, chính anh là người đă cho chúng tôi những túi vàng!  Chúng tôi cần phải biết vị ân nhân của chúng tôi.  Xin mời anh vào trong nhà, để chúng tôi  tỏ lòng biết ơn anh.
 Không!  Không!  Tôi không muốn việc tôi làm bị bại lộ.  Cách tốt nhất ông tỏ lòng biết ơn tôi là xin hứa với tôi, sẽ không bao giờ nói cho ai biết việc tôi đă làm.
Sau đó, Nicholas chẳng những dâng hiến của cải và thời giờ cho Chúa, chàng còn dâng mình để trở thành một linh mục.  Rồi một thời gian sau, ngài được chọn làm Giám Mục thành Myra, không xa Patara là bao.  Lòng nhân ái và quãng đại đối với người nghèo của Ngài đồn ra khắp nơi.
Người ta kể rằng, một đêm bảo tố khủng khiếp tại biển Aegean, Nicholas cứu nguy một chiếc tầu đă hầu chìm đắm nhờ kêu cầu sự trợ giúp của Thiên Chúa.  Do câu truyện này, các thủy thủ ở miền đó thường kêu tên Nicholas trước các chuyến hải hành.  Họ chúc nhau một cuộc hành trình tốt đẹp khi nói:
-          Xin thánh Nicholas cầm lái!

Nhiều huyền thoại xoay quanh cuộc đời Đức Giám Mục Nicholas, Đấng sau này đă được phong thánh.  Cùng với thánh Anrê Tông Đồ, Ngài là Quan Thầy nước Nga.  Tại Đức, Thụy Sĩ và Ḥa Lan người ta tỏ ḷòng tôn kính thánh Nicholas bằng nhiều tục lệ tốt đẹp.  Dần dà, Ngài được coi như một vị thánh của trẻ nhỏ.

Trong đêm vọng lễ kính Ngài, ngày 6 tháng 12, trẻ em thuộc nhiều quốc gia đặt giầy của chúng ra ngoài nhà để cho thánh Nicholas bỏ đầy kẹo bánh và đồ chơi.  Nếu chúng vẫn tỏ ra ngoan ngoăn, chúng có quyền hy vọng như vậy.

Người Ḥa Lan đă đem những tục lệ này vào Mỹ.  Thánh Nicholas hay “Saint Klaus” của người Ḥa Lan từ đó được biết như “ông già Noel” (Santa Claus).  Rồi thay vì đặt giầy ra ngoài nhà vào đêm vọng lễ thánh Nicholas, các trẻ em Mỹ treo những đôi vớ của chúng vào đêm Sinh Nhật để được “ông già Noel” bỏ đầy kẹo bánh và đồ chơi.

Thánh Nicholas qua đời tại Myra vào thế kỷ thứ 4.  Nhiều nhà thờ tại Á Châu và Âu Châu được xây dựng để kính nhớ Ngài.  Thế kỷ 17, khi quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công Myra, nước Ư.  Người ta đã di hài cốt Ngài về táng tại Pari, nước Ư và tại đó hài cốt Ngài vẫn còn tồn tại đến ngày nay.


Raymond Thư, Lm, CMC

No comments:

Post a Comment