Monday, May 9, 2022

Thắp Cho Em Ngọn Nến

Trương Hữu - HIEN YUKEN



Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào ngươì nỗi chết
Quê hương ta sống chia dòng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin
(Mai Tôi Đi- Nguyễn Đình Toàn)

Mỗi lần nghe mấy câu đầu trong bài hát “Mai tôi đi” của Nguyễn Đình Toàn cứ làm tôi liên tưởng đến những cái chết nơi rừng sâu nước độc, hay giữa đại dương mênh mông ngút ngàn. Những nấm mồ của người tù “cải tạo” vô danh giữa núi rừng hay đáy huyệt thuyền nhân bất hạnh nơi biển khơi. Những cái chết oan ức sau tháng tư năm 1975 của vô số người dân mình. Cô đơn, oan khiên. “Quê hương ta sống chia dòng vĩnh biệt. Chảy về đâu những nước mắt đưa tin”. Để rồi mỗi tháng tư về không kìm được cảm xúc tôi lại loay hoay gõ vài dòng về khoảng đời biển dâu ấy. Như một tưởng niệm mốc thời gian định mệnh của miền nam và của cả chính cuộc đời mình…
Tháng tư năm nay lại về, cuối tuần tôi ngồi bần thần trước bàn phiếm máy tính tìm ý tìm chữ cho một bài viết. Vậy mà tự dưng bà nhà tôi thấy vậy lại vui miệng chen ngang câu:
– Ở Việt nam bây giờ 30 tháng tư là ngày lễ lớn, pháo bông nổ vang trời. Ai được nghỉ cũng lo vui chơi chớ đâu để ý chuyện hồi đó nữa. Viết làm chi hè!
-Thì ai vui thì cứ chơi, còn mình không vui thì cũng có quyền nói lên điều suy nghĩ của mình chớ! Để anh viết vài dòng cho kịp ngày mai.
Thấy tôi vẫn chần chừ chưa chịu bỏ cuộc thì nàng phán thêm:
-Lo cho cái thân mình đi, ngày nào cũng uống cả vọc thuốc tăng áp huyết mà chưa sợ à! Anh Thông mới gởi text hỏi em bên này có nghỉ lễ không kìa!
Nói xong câu đó bà nhà tôi lại cười cười như châm chọc. Nghe thiệt mất hứng, vậy là đành bỏ ngang ý nghĩ “cầm bút”.
Rảnh rỗi, chẳng biết làm gì tôi lang thang ra ngồi quán cà phê quen dưới phố. Nhìn trời mây, nhìn thiên hạ qua lại cho quên đi những nghĩ suy cứ đeo bám mình. Rồi vẫn vơ nhớ, nhớ tuổi thơ mình những ngày trước tháng tư, nhớ Đà nẵng thời chiến tranh mà vẫn bình yên êm ấm, nhớ đến khu nhà tôi, nhớ những người hàng xóm thân thương hiền hòa. Mới đó mà 30 tháng tư này nữa là 47 lần rồi. Đúng là thời gian nó bay chớ đâu có đủng đỉnh đi như mình mong muốn ở tuổi này.
Khoảng mùa hè 1995 lần đầu tiên tôi về lại Việt nam sau gần 20 năm. Ở Sài gòn mới hai hôm với gia đình người chị tôi đã nôn nóng mua vé máy bay trông vù về Đà nẵng. Sài gòn cũng có những kỷ niệm của thời đại học sôi nỗi, nhưng Đà nẵng vẫn là nơi làm bồi hồi nhất khi tôi nhớ đến. Đà nẵng của một thời niên thiếu bạn bè rong chơi đầu đường cuối phố. Đà nẵng chưa kịp đặt chân, nghĩ đến thôi đã làm mình rạo rực không yên.
Sáng sớm háo hức xách va li lên phi trường Tân Sơn Nhất, kiếm một ly cà phê nhâm nhi ngồi ở khu vực chờ. Thật bất ngờ tôi gặp lại hai bác Quốc Long từ Đà nẵng vừa đáp chuyến bay xuống. Gần 20 năm mà hai bác vẫn nhận ra tôi ngay. Bác gái vừa gặp mặt đã ôm chầm lấy tôi hỏi:
-Hiền đây hả, về hồi mô vậy con?
Tôi chưa kịp trả lời, bác đã ràn rụa nước mắt nói ngay:
-Đông nó mất tích rồi con ơi! Mấy chục năm chẳng có tin tức gì nó cả.
Tôi chỉ biết ôm bác vỗ về và nói đã biết tin về Đông từ khi còn trong trại tỵ nạn. Bác gái ngồi xuống cạnh tôi huyên thuyên hỏi chuyện. Còn bác Quốc Long trai thì chỉ đứng im lặng nhìn, giữ khoảng cách khá xa. Nhưng tôi cảm nhận trong ánh mắt bác một nỗi đau buồn bất tận. Nỗi buồn nhớ thương con tan nát. Đàn bà dễ than khóc cho một tai ương ập đến, nhưng thời gian sau có thể gượng dậy mà tạm quên đi. Đàn ông thì khác nhiều lắm, cứ vậy mà họ im lặng chịu đựng dai dẳng từ ngày này qua ngày khác, khó nguôi. Ánh mắt và sự im lặng của bác trai làm tôi không dám nhìn trực diện, tôi sợ cái cảm giác mình đang chạm đến nỗi đau quá sức chịu đựng của một con người!…
Vợ chồng bác Quốc Long là hàng xóm sát vách nhà tôi thời Đà nẵng, và Đông là cô con gái thứ của hai bác, Đông mất tích trên đường vượt biển khoảng mùa hè 1980. Đông nhỏ hơn tôi hai tuổi, thân thiết nhau từ thuở nhỏ cho đến cả khi lớn lên. Hồi đó chuyện gì tôi và cô ấy cũng có thể kể cho nhau nghe, chuyện gia đình, rồi trường lớp, chuyện tình cảm bạn bè buồn vui. Sau này khi tôi đi học xa, mỗi mùa hè hay dịp tết Đông bao giờ cũng mừng khi tôi về Đà nẵng. Vậy mà khi tôi vượt biển đến trại tỵ nạn Nhật thì mấy tháng sau Đông lại không may, cũng ra đi mà không bao giờ tới bến bờ. Cô ấy cùng với những người cùng chuyến ghe đã nằm lại đâu đó giữa biển khơi. Thời gian đầu còn hy vọng chuyến đi lạc vào một hải đảo nào đó, nhưng bao năm rồi vẫn biệt tin thì chắc chắn tất cả không còn.
Về Đà nẵng lần đó, ghé ngang thăm khu phố gia đình mình từng ở tôi mới biết ngoài Đông còn có vài người cùng xóm mất tích trên đường vượt biển. Người con trai gia đình bác Thể nhà đối diện, cách nhà tôi vài căn có gia đình người Việt gốc Hoa cũng mất tích gần hết trong một chuyến đi. Xóm nhà tôi bây giờ trông lạ hẵn, sầm uất và xô bồ hơn. Tôi nhớ ngày xưa nơi đây khá yên tĩnh, những ngôi nhà lầu vài ba tầng chạy dọc theo hai bên con đường Ông Ích Khiêm dài đến tận bãi biển. Xóm tôi nằm khoảng giữa chợ Cồn và chùa Tĩnh Hội. Một nơi thật đặc biệt vì có nếp sống ảnh hưởng giữa xô bồ chợ búa và tĩnh lặng chùa chiềng. Một nơi vừa là chỗ dễ làm ăn buôn bán nhưng tâm linh đạo đức vẫn cận kề bên. Khu xóm tôi nhà nào buôn bán cũng tương đối phát đạt. Người xóm tôi vừa chăm chỉ làm ăn vừa thân thiện hiền hòa. Tuy thời chiến tranh mà mọi người vẫn bình yên thanh thản sống. Vậy mà sau tháng tư 1975, đất nước không còn chiến tranh thì những lo lắng sợ hãi lại ập đến. Để người người, nhà nhà không sống nổi phải đành bỏ lại tất cả tìm đường ra đi, bất chấp rủi ro hiểm nguy.
Nhớ lần cuối tôi gặp Đông. Từ Sài Gòn tôi trốn về Đà nẵng chờ một chuyến đi. Tết đó tôi ghé nhà vài hôm. Sau tết, một buổi chiều tôi rủ Đông đi uống cà phê dưới phố. Lúc đó đã tuổi gần 20 rồi mà Đông còn ngại ngùng sợ hàng xóm dị nghị, cô ấy bắt tôi phải đạp xe đến tuốt cuối đường rồi mới lấy xe theo gặp. Hôm đó Đông cho biết gia đình đã thỏa thuận với một tổ chức vượt biển, ngày Đông đi cũng không còn xa. Cô ấy rủ tôi đi chung nếu muốn. Tôi nói cứ nhắn với gia đình tôi khi đến ngày đi. Nhưng thật ra, ba mẹ tôi cũng đang liên lạc với một tổ chức khác. Tôi và Đông nói chuyện nhiều lần gặp đó. Cô ấy nói về ước mơ đi thoát nơi này, đến một nơi không còn những kỳ thị thù hằn giai cấp, ước mơ được trở thành cô sinh viên cắp sách đến trường. Tôi thương những ước mơ bình dị của cô ấy. Con gái thường hay mơ mộng mà quên đi những gì thực tại. Tội nghiệp cho những ước mơ của Đông chẳng bao giờ thành hiện thực.
Tuần sau tôi có hẹn ra khơi, chiều sẩm tối tôi bắt phà ngang sông Hàn, ngoái nhìn phố phường bờ tây lần cuối giả từ. Chuyến đi lênh đênh nguy hiểm nhưng may mắn cuối cùng được tàu Nhật cứu đưa về trại tỵ nạn Okinawa. Mấy tháng sau hai cô em gái tôi cũng vượt biển đến được Hồng Kông. Và qua thư của hai cô em tôi biết tin Đông đã ra đi trước đó nhưng chẳng biết tin tức gì. Tôi rất buồn và luôn cầu nguyện ơn trên cho cô ấy được bình an sống sót ở một nơi nào đó. Hơn 40 năm trôi qua!…
Lần đầu qua Mỹ thăm gia đình, nhắc đến Đông trong câu chuyện, ba tôi nói nghe tin có chuyến tàu ra đi tận những năm đó, rồi lạc vào một hoang đảo và những thuyền nhân đến sau này mới được tìm thấy. Ba nói, “Biết đâu Đông nó vẫn còn sống”. Nghe như chuyện hoang đường ấy. Nhưng điều đó chứng tỏ mọi người đều quí mến mà thương tiếc Đông, một cô gái nết na hiền lành trong xóm.
Lần gặp hai bác Quốc Long ở phi trường năm đó cứ ám ảnh tôi mãi. Bây giờ hai bác đã mất nhưng tôi vẫn nhớ đến những giọt nước mắt ràn rụa của bác gái, cái thinh lặng và ánh mắt tan vỡ u buồn của bác trai.
Đời người vài ba mươi năm thì dài hay ngắn làm sao chúng ta biết được. Có những vi sinh vật chỉ sống được vài ba mươi giờ, và có những loài trường tồn hằng chục thế kỷ. Nhưng tất cả cũng được gọi là đời sống dù cho ngắn hay dài theo đơn vị thời gian. Và rồi cuối cùng tất cả đều tan biến trong cái gọi là “hố đen vũ trụ”, chắc hẵn gồm cả sinh vật linh hồn. Tuy nhiên, con chim sống hết đời hồn bay về trời là điều hạnh phúc, cá dưới sông dưới biển chết đi hồn chúng tan vào sóng nước là điều đương nhiên may mắn. Con người sinh ra nơi đất ở, chết đi gởi hồn vào đất là lẽ thường ước muốn cuối cùng. Nhưng có những cái chết như Đông, cô bạn tôi, và những nạn nhân oan ức trong hải trình may ít rủi nhiều năm xưa, hồn họ sẽ bám víu vào đâu khi phải xa rời đất mình sinh ra. Chúng ta nghĩ đến đã đau xót huống gì người thân của họ. Đau buồn biết chừng nào, từng hằng đêm hằng ngày trằn trọc thương nhớ. Có những thời kỳ mà tàn nhẫn lên ngôi để chúng ta không còn tìm được nơi sống dù ngay trên chính quê hương mình, nơi mảnh đất mình sinh ra. Để rồi bất hạnh những mảnh đời chôn thây giữa lòng biển khơi, chết ngộp không còn kịp nhận lấy hơi thở cuối cùng. Tôi vẫn nhớ đến Đông ở lần gặp cuối cùng. Đã bao nhiêu năm, bao nhiêu lần tôi muốn viết vài dòng về cô ấy nhưng đặt bút xuống sao có cảm tưởng mình đang nhẫn tâm chạm đến nỗi tủi buồn của một linh hồn. Rồi không sao viết nổi. Thôi thì lần này, hơn 40 năm rồi còn gì, tôi gắng cặm cụi viết lại câu chuyện thương tâm này như thắp lên một ngọn nến cầu nguyện cho cô ấy mãi ngủ giấc bình yên, ở một nơi nào đó!
Viết gởi đến những người cùng xóm tôi
Một ngày sau 30 tháng tư, 2022.

Trương Hữu
_________________________

1 comment:

  1. Cám ơn anh Hiền nhiều nghen. 47 năm đi qua, mới đó mà gần nửa thế kỷ. Bạn & mình giờ ai cũng đã gọi là già, tóc muối nhiều hơn tiêu..
    Mỗi năm cứ đến ngày 30 tháng tư là lòng dấy lên nhiều cảm xúc, buồn phiền.. Có lẽ sẽ cứ như vậy đến cuối đời???

    ReplyDelete